Trước thực trạng có thể
đối mặt với biện pháp phòng vệ thương mại từ các thành viên trong khối CPTPP,
các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị, tìm hiểu kỹ về lĩnh vực phòng vệ thương
mại để có ứng phó kịp thời trong trường hợp bị các nước thành viên của CPTPP
khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Đừng để nước đến chân
mới nhảy
Ông Chu Thắng Trung, Phó
Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương, cho rằng Hiệp định Đối tác
toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đem lại lợi thế cạnh tranh
cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, trong đó
nổi bật nhất là rào cản phòng vệ thương mại.
Phòng vệ thương mại bao
gồm 3 biện pháp chính là chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Ngoài ra,
các nước có thể áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại khi chứng
minh được hàng hóa, nguyên liệu từ nước đang bị áp thuế được xuất khẩu, gia
công thêm ở một nước thứ ba với giá trị gia tăng không đáng kể.
CPTPP mang lại nhiều cơ
hội cho doanh nghiệp và kinh tế Việt Nam nhưng cũng mang tới những thách
thức, rủi ro về việc bị điều tra và áp dụng phòng vệ thương mại. Hiện trong số
các thành viên CPTPP, có nhiều quốc gia sử dụng công cụ phòng vệ thương mại
thường xuyên như Cannada, Mexico, Australia, Malaysia…
"Tham gia CPTPP sẽ
giúp hàng xuất khẩu của chúng ta tăng trưởng nhanh, mạnh nên kèm theo đó sẽ tạo
ra áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trên địa bàn sở tại. Vì vậy họ sử
dụng công cụ được WTO và CPTPP cho phép nhằm bảo vệ lợi ích doanh nghiệp nước
họ. Công cụ đó là phòng vệ thương mại, chống bán phá giá, trợ cấp và tự
vệ", ông Trung nói.
Trước thực trạng có thể
đối mặt với biện pháp phòng vệ thương mại từ thành viên trong CPTPP, các doanh
nghiệp cần có sự chuẩn bị, tìm hiểu kỹ về lĩnh vực phòng vệ thương mại để có
ứng phó kịp thời trong trường hợp bị các nước thành viên của hiệp định khởi
xướng điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Cụ thể, doanh nghiệp cần
theo dõi sát hệ thống cảnh báo sớm về nguy cơ điều tra các vụ việc phòng vệ
thương mại của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương).
Thứ nữa cần chủ động xây
dựng chiến lược ứng phó phù hợp để đạt được hiệu quả và tránh làm ảnh hưởng đến
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực sử dụng
công cụ phòng vệ thương mại.
Doanh nghiệp cũng cần
chú ý đa dạng hóa sản phẩm để tránh lệ thuộc vào một sản phẩm của một thị
trường nhất định, nhằm đảm bảo nếu rủi ro xảy ra chúng ta có thể có những hoạt
động sản xuất kinh doanh khác nhau, phân tán bớt rủi ro. Đặc biệt cần lưu ý đầu
tư nâng cao chất lượng sản phẩm, cố gắng cạnh tranh chất lượng, không cạnh
tranh giá, hạn chế thấp nhất rủi ro bị điều tra phòng vệ thương mại.
Duy trì hệ thống sổ sách
chứng từ liên quan hoạt động giao dịch sản xuất, xuất khẩu, lưu trữ khoa học để
phòng trường hợp xảy ra vụ việc điều tra chúng ta chứng mình bằng chứng từ với
cơ quan điều tra. Tùy theo từng vụ việc doanh nghiệp cân nhắc sử dụng hỗ trợ tư
vấn luật sư chuyên về phòng vệ thương mại, phối hợp đối tác xuất nhập khẩu.
Trường hợp bị điều tra
phòng vệ thương mại, doanh nghiệp cần chia sẻ thông tin, phối hợp với hiệp hội
cơ quan quản lý nhà nước mà ở đây là Cục Phòng vệ thương mại để được cung cấp
thông tin, cách thức xử lý.
"Tôi tin tưởng rằng
với các biện pháp trên, trong trường hợp bị điều tra phòng vệ thương mại thì
cũng chưa chắc dẫn đến kết quả bất lợi", ông Trung nhấn mạnh.
Bài học từ ngành nhôm,
thép Việt
Ông Dương Quốc Tuấn, Phó
Chủ tịch Hiệp hội Nhôm thanh định hình Việt Nam, cho biết trước đây, ngành nhôm
Việt Nam nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài. Từ những năm 2018 trở về
trước, hiện tượng dư cung ở Trung Quốc đã đẩy một lượng lớn nhôm định hình nhập
khẩu vào Việt Nam. Nhưng những năm gần đây, ngành nhôm đã bước đầu đã được
doanh nghiệp sản xuất và làm chủ.
Tháng 9/2019, sau khi
điều tra các bên liên quan thì Bộ Công Thương đã ban hành quyết định áp thuế
chống bán phá giá với biên độ từ 2,49% đến 35,58%. Quyết định này đã giúp cho
doanh nghiệp ngành Nhôm thoát được khủng hoảng, dần phục hồi, chiếm lĩnh lại
thị trường trong nước, niềm tin của người tiêu dùng và
đang tiến tới xuất khẩu.
“Đây chính là biện pháp
phòng vệ rất chính đáng từ hoạt động phòng vệ thương mại mà Hiệp hội Nhôm là
một đơn vị trẻ cũng đã làm được để hỗ trợ các thành viên của mình. Điều này đã
tạo tiền đề để chúng tôi phát triển từ 12 thành viên ban đầu lên gần 50 thành
viên”, ông Tuấn nói.
Ông Tuấn cho biết thêm,
chính những doanh nghiệp trong Hiệp hội Nhôm đã vực dậy được thị trường trong
nước và bước đầu có những hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài, mang ngoại tệ về
cho đất nước. Do đó, ông Dương Quốc Tuấn cho rằng, phòng vệ thương mại có ý
nghĩa lớn đối với ngành nhôm trong thời gian qua.
"Trong vài năm qua,
Hiệp hội Nhôm đã nhận được đơn khởi kiện từ Mỹ, Ai Cập và Australia... Chúng
tôi đang phối hợp với Cục Phòng vệ thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp
trong hiệp hội xử lý các vấn đề liên quan để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
xuất xứ và hàng hóa của chúng ta khi xuất khẩu đến các thị trường đó”, ông Tuấn cho biết.
Bà Trang Thu Hà, Chánh
văn phòng Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, trong 10 năm trở lại đây, ngành thép
Việt Nam cũng có những bước phát triển vượt bậc, với tăng trưởng bình quân
10%/năm. Năm 2021, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 14 triệu tấn thép thành phẩm
và bán thành phẩm với kim ngạch xuất khẩu hơn 12 tỷ USD, tính riêng 10 tháng
2022, thép xuất khẩu đạt hơn 7,3 triệu tấn với hơn 7,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, bà Hà cho
rằng, việc sản phẩm thép bị điều tra phòng vệ thương mại xuất phát từ những
nguyên nhân khác nhau, bao gồm nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên
nhân khách quan đó là chủ nghĩa bảo hộ toàn cầu gia tăng không chỉ với ngành
thép mà với tất cả các ngành. Do thép là đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản
xuất nội địa nên nhìn chung chính sách của đa số các nước đều cố gắng bảo vệ và
thúc đẩy sự phát triển ngành sản xuất thép trong nước để nâng cao giá trị gia
tăng mà nền kinh tế tạo ra và có thêm việc làm cho người lao động. Vì thế, các
nước đều có xu thế bảo hộ ngành thép của chính đất nước họ, từ đó dẫn đến số vụ
việc phòng vệ thương mại đối với thép đối với các nước gia tăng.
Ngoài ra, cùng với việc
Việt Nam ký kết một loạt FTAs song phương, đa phương, thế hệ mới và mở cửa thị
trường, nhiều mặt hàng trong đó có sắt thép sẽ có mức thuế về 0%, dẫn tới các
nước tìm các biện pháp khác (ngoài thuế nhập khẩu) nhằm hỗ trợ ngành sản xuất
nội địa của mình.
Cuối cùng là xu hướng
kiện chùm, kiện domino. Các nước thường có xu hướng kiện nhiều nước (các nước
có thị phần xuất khẩu lớn vào nước điều tra hoặc các nước nghi ngờ có sự chuyển
tải hàng hóa nhằm lẩn tránh thuế, hoặc các nước đặt trụ sở công ty mẹ-con).
Việt Nam thường xuyên bị kiện chung với một số nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ…
(là các nước xuất khẩu thép lớn trên thế giới).
Về nguyên nhân chủ quan,
sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam có giá thành tương đối cạnh tranh do nhiều
nguyên nhân khác nhau như chi phí nhân công rẻ, các doanh nghiệp đang dần tự
sản xuất nguyên liệu đầu vào thép cán nóng… đe dọa lợi nhuận của doanh nghiệp
nước sở tại.
Việc tiếp cận về phương
pháp phòng vệ thương mại cũng như kết nối thông tin của các doanh nghiệp thép
với các doanh nghiệp của nước sở tại cũng như các chính sách chưa đầy đủ dẫn
đến các vụ việc xung đột về thương mại. Mặc dù trong những năm trước đây sản phẩm
thép đã bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhiều, tuy nhiên kim
ngạch xuất khẩu thép của Việt Nam tiếp tục tăng, sản phẩm thép của Việt Nam
tiếp tục tạo uy tín trên nhiều thị trường khác nhau, làm gia tăng nguy cơ bị
phòng vệ thương mại.
“Mặc dù hiểu biết của
Hiệp hội Thép, doanh nghiệp thép về phòng vệ thương mại đã được củng cố trong
những năm qua tuy nhiên vẫn còn hạn chế về khả năng dự đoán, nắm bắt thông tin
sớm. Việc Việt Nam đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại trong đó có
mặt hàng thép là điều tất yếu, không thể tránh khỏi khi tham gia quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, do kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh”, bà
Hà nhận xét.
Bà Trang Thu Hà cũng
nhận định, đối diện với nhiều vụ việc phòng vệ thương mại tại các
thị trường quốc tế, bên cạnh những khó khăn, doanh nghiệp thép cũng có
những lợi thế riêng. Cụ thể, các doanh nghiệp đã dần chủ động khi đối diện với
các sự việc như chuẩn bị sẵn nhân lực, cũng như hệ thống tài chính sổ sách kế
toán, tiếp cận với các đối tác để tạo niềm tin và tích cực phối hợp cung cấp
thông tin khi cơ quan điều tra của nước sở tại đề nghị. Ngoài ra, qua quá trình
tham gia vụ việc, doanh nghiệp sẽ dần tiếp cận và chủ động tăng cường khả năng
cạnh tranh, tiếp cận bạn hàng và mở rộng ra các thị trường mới.
Bà Hà phân tích thêm,
phòng vệ thương mại đối với các quốc gia khác được sử dụng rất nhuần nhuyễn,
nhưng Việt Nam mới chính thức sử dụng được 6 năm. Doanh nghiệp được tiếp cận và
xử lý vụ việc mới diễn ra trong khoảng 10 năm trở lại đây. Do vậy, cái thiếu
nhất của các doanh nghiệp thép là vấn đề này còn khá là mới. Với những doanh
nghiệp lớn có tiềm lực, có cac phòng ban, nhân lực, tài chính để đầu tư vừa kéo
nhiều thời gian vừa mất thời gian cho vụ việc không chỉ 3 đến 5 năm mà có thể
kéo rất dài.
"Trong ngành
thép của chúng ta hiện nay có một số doanh nghiệp lớn nhưng đa phần vẫn là các
doanh nghiệp nhỏ. Do đó sự hiểu biết của những doanh nghiệp này để sắp sếp nhân
lực để tham gia vào các vụ việc thì rất khó khăn và để tiếp cận đủ thông tin
cũng như thời gian diễn ra vụ việc", bà Hà nói.
Nguồn:VTC News