1. Tình hình nội thương
Hoạt động thương mại dịch vụ tháng Tư tiếp tục xu hướng
tăng khá, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng
và hàng tiêu dùng thiết yếu được bảo đảm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tháng 4/2024 tăng 4,0% so với tháng 03/2024 và tăng 12,6% so với cùng kỳ
năm trước. Bốn tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng
4/2024 ước đạt 6.224 tỷ đồng, tăng 4,0% so với tháng trước và tăng 12,6% so với
cùng kỳ năm 2023. So với tháng trước, bán lẻ hàng hóa 5.537 tỷ đồng, tăng 4,6%;
lưu trú và ăn uống 388 tỷ đồng, tăng 1,6%; du lịch lữ hành 2 tỷ đồng, tăng
5,0%; dịch vụ khác 297 tỷ đồng, giảm 3,6%.
Theo giá hiện hành, tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ 4 tháng năm 2024 đạt 24.946 tỷ đồng, gấp 1,6 lần so với 4
tháng năm 2020 (năm xảy ra dịch Covid-19) và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa 22.188 tỷ đồng, chiếm 88,9%
tổng mức và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số nhóm hàng có tốc
độ tăng cao: Lương thực, thực phẩm tăng 16,5%; hàng may mặc tăng 13,1%; vật phẩm,
văn hóa, giáo dục tăng 16,4%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,4%; ô tô con (dưới
9 chỗ) tăng 112,9%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng
9,5%; hàng hóa khác tăng 12,4%. Ở chiều ngược lại một số nhóm hàng hóa giảm:
xăng, dầu các loại giảm 5,9%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) giảm 5,1%; đá quý,
kim loại quý và sản phẩm giảm 4,4%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 1.504 tỷ
đồng, tăng 17,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành lưu trú 92 tỷ đồng
và 259 nghìn lượt khách, tăng 2,1% doanh thu và 1,2% lượt khách; ngành ăn uống
đạt 1.412 tỷ đồng, tăng 18,1%. Doanh thu du lịch lữ hành 7 tỷ đồng và 11 nghìn
lượt khách, tăng 15,9% doanh thu và tăng 10,5% lượt khách. Doanh thu dịch vụ
khác 1.247 tỷ đồng, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước.
2. Xuất, nhập khẩu
Hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh tháng
4/2024 duy trì mức tăng khá với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt
368 triệu USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2023. Bốn tháng đầu năm 2024, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 1.313 triệu USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ
năm trước, xuất siêu đạt 345 triệu USD.
Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ
bộ tháng 3/2024 đạt 210 triệu USD; tháng 4/2024 ước đạt 230 triệu USD, tăng
9,8% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 4
tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 829 triệu USD, tăng 14,0% so với
cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 7 triệu USD, giảm 46,1%; khu vực
ngoài Nhà nước 241 triệu USD, tăng 25,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 581
triệu USD, tăng 11,4%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc, da giày và
lâm sản chiếm 93,9% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ
bộ tháng 3/2024 đạt 137 triệu USD; tháng 4/2024 ước đạt 138 triệu USD, tăng
0,7% so với tháng trước và tăng 30,3% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 4
tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 484 triệu USD, tăng 16,5% so với
cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 6 triệu USD, giảm 43,4%; khu vực
ngoài Nhà nước 122 triệu USD, tăng 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 356
triệu USD, tăng 22,1%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên phụ liệu may; da và
các mặt hàng liên quan; bông, xơ, sợi dệt chiếm 93,9% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Ba xuất siêu 73 triệu USD; tháng Tư ước
tính xuất siêu 92 triệu USD. Tính chung 4 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng
hóa xuất siêu 345 triệu USD; trong đó: khu vực kinh tế trong nước xuất siêu 120
triệu USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 225 triệu USD.
3.
Giá
Giá
học phí của các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập giảm theo Nghị quyết
số 10/2024/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh; giá điện, nước sinh hoạt giảm
theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 4/2024 giảm 1,26% so với tháng trước và tăng 4,36% so với cùng kỳ
năm 2023. Bình quân 4 tháng năm 2024, CPI tăng 4,19% so với cùng kỳ năm trước.
Trong
mức giảm 1,26% của CPI tháng 4/2024 so với tháng trước, có 06 nhóm hàng giảm
giá; 04 nhóm hàng tăng giá và 01 nhóm giá ổn định. (1) Sáu nhóm hàng hóa và dịch
vụ giảm giá gồm: Nhóm giáo dục giảm nhiều nhất 19,25%, trong đó dịch vụ giáo dục
giảm 22,42%. Nguyên nhân ngày 13/3/2024, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị
quyết số 10/2024/NQ-HĐND điều chỉnh giảm mức học phí năm học 2023-2024 đối với
các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập sau khi đã thu theo Nghị quyết số
11/2023/NQ-HĐND. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm
0,72%, trong đó: giá nước sinh hoạt giảm 4,33%; giá điện sinh hoạt giảm 2,85%;
giá gas giảm 2,50% do từ ngày 01/4/2024, giá gas trong nước điều chỉnh giảm
5.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 17,5 USD/tấn (từ mức 635
USD/tấn xuống mức 617,5 USD/tấn). Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống uống chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong CPI giảm 0,18% chủ yếu do giá lương thực giảm 0,88% do giá
gạo trong nước giảm 0,98% theo giá xuất khẩu. Bên cạnh đó, giá thực phẩm giảm
0,16% do nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm trong khi nguồn cung hàng hóa dồi
dào, tập trung chủ yếu ở một số mặt hàng sau: giá thịt bò giảm 0,24%; thịt gia
cầm giảm 0,21%; thủy sản tươi sống giảm 0,13%; rau tươi, khô và chế biến giảm
3,31%; quả tươi, chế biến giảm 2,30%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm
0,18% do nhu cầu mua sắm giảm, trong đó thiết bị văn hóa giảm 0,55%. Bên cạnh
đó, thời tiết thuận lợi, đang rộ mùa hoa khiến giá hoa, cây cảnh, vật cảnh giảm
0,04%. Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,12% nguyên nhân do các doanh nghiệp thực
hiện chương trình khuyến mại giảm giá đối với một số loại điện thoại 15 di động
mẫu mã cũ. Theo đó giá điện thoại di động thông thường giảm 0,38% và điện thoại
di dộng thông minh, máy tính bảng giảm 0,15%. Nhóm đồ uống và thuốc lá giảm
0,04% theo nhu cầu tiêu dùng, trong đó giá sản phẩm nước giải khát có ga giảm
0,54%. (2) Ở chiều ngược lại, bốn nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá gồm: Nhóm
giao thông tăng 1,80% do giá xăng, dầu trong nước điều chỉnh tăng theo giá
nhiên liệu thế giới. Bình quân tháng 4/2024 giá nhiên liệu tăng 4,80%; trong đó
giá xăng tăng 5,01%, cụ thể: xăng A95 tăng 1.125 đồng/lít, xăng E5 tăng 1.207 đồng/lít.
Bên cạnh đó, dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,71% do dịch vụ sửa chữa
xe máy tăng 0,81%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,27%, chủ yếu tăng giá ở
một số mặt hàng: đồ dùng cá nhân tăng 0,59% (dụng cụ cá nhân không dùng điện
tăng 0,82%; đồ trang sức tăng 0,88%; sửa chữa đồng hồ đeo tay, đồ trang sức
tăng 2,06%); dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 2,60%. Nhóm may mặc, mũ nón, giày
dép tăng 0,21% do giá nguyên phụ liệu sản xuất và chi phí nhân công tăng. Trong
đó: quần áo may sẵn tăng 0,03%; may mặc khác và mũ nón tăng 0,13%; giày dép
tăng 0,77%; dịch vụ may mặc tăng 0,56%. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
nhẹ 0,01%, trong đó: máy giặt tăng 0,40%; máy xay sinh tố, ép hoa quả tăng
1,26%; đồ ăn, dao kéo làm bếp tăng 0,20%; xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,01%;
vật phẩm tiêu dùng khác tăng 0,03%. (3) Nhóm thuốc và dịch vụ y tế có chỉ số
giá ổn định so với tháng trước. Chỉ số giá vàng tăng 1,96% và chỉ số giá đô la
Mỹ tăng 1,22% so với tháng trước. Bình quân 4 tháng năm 2024, CPI tăng 4,19% so
với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 17,81% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng
4,45%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 09 nhóm tăng, trong đó nhóm giáo dục tăng nhiều
nhất 14,27%; hai nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,42%); nhóm văn
hóa, giải trí và du lịch (giảm 0,36%).