TS. Võ Duy Nghi
- Chủ tịch Công ty Amity Logistics Company Limited
Cùng với sự phát
triển như vũ bão của thương mại điện tử (e-commerce) ở Việt Nam với quy mô năm
2020 ước tính lên đến 13,2 tỉ đô la, tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 15% thì
cơ hội cho logistics điện tử trong những năm sắp tới là không hề nhỏ.
Với chi phí
logistics ước tính chiếm khoảng gần 10% doanh thu của các doanh nghiệp thì
doanh số của hoạt động logistics điện tử ở Việt nam trong những năm tới sẽ đạt
đến mức hàng tỉ đô la Mỹ trong thời gian không xa.
Logistics điện
tử (e-logistics) là khái niệm tương đối mới không những đối với người dân,
doanh nghiệp mà còn cả với các doanh nghiệp logistics truyền thống. Logistics
điện tử được xem là 5PL logistics, tức logistics kết hợp với thương mại điện
tử.
Khác với lĩnh
vực logistics truyền thống chuyên “chặt to kho mặn” với những đơn hàng lớn,
logistics điện tử có đặc thù riêng với những đơn hàng nhỏ lẻ, số lượng đơn hàng
lớn, nhiều chủng loại, tiến độ giao hàng nhanh, đòi hỏi độ chính xác cao.
Điểm khác biệt
lớn nhất là trong khi phần lớn việc xử lý đơn hàng, báo giá logistics truyền
thống được thực hiện bằng phương pháp thủ công, thì e-logistics đòi hỏi việc
thực hiện logistics đầu vào (procurement) và logistics đầu ra (fulfillment)
được xử lý bằng công nghệ thông tin, các quy trình được tự động hóa để đáp ứng
số lượng đơn hàng lớn lên đến hàng triệu đơn mỗi ngày, hàng trăm ngàn chủng
loại hàng hóa, tiến độ giao hàng chỉ trong vòng chỉ 1-2 giờ.
Sân chơi của những “ông lớn”
Thực tế cho thấy
với số lượng doanh nghiệp logistics, vận tải và phát chuyển nhanh của Việt Nam
hiện lên tới 30.000 doanh nghiệp nhưng phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
trong đó 90% số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỉ đồng, 5% doanh nghiệp có vốn từ
10-20 tỉ đồng thì khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng e-logistics là nhiệm vụ
bất khả thi.
Trong lĩnh vực
logistics điện tử, công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Để có thể tham gia
đầy đủ vào chuỗi cung ứng logistics điện tử, các doanh nghiệp phải đầu tư hàng
triệu đô la Mỹ vào dây chuyền phân loại hàng hóa. Với số lượng đơn hàng lên đến
hàng triệu đơn mỗi ngày, nhiều chủng loại, phân tán nhiều địa điểm giao hàng
khác nhau nếu không trang bị hệ thống phân loại hàng tự động thì không thể nào
đáp ứng nhu cầu giao hàng và không đảm bảo độ chính xác nếu phân loại thủ công.
Nhiều doanh nghiệp logistics nhỏ hiện nay chỉ xử lý đơn hàng và phân loại hàng
hóa bằng phương pháp thủ công nên chỉ phù hợp với các doanh nghiệp bán lẻ có
quy mô nhỏ, chủng loại hàng hóa riêng lẻ.
Bên cạnh việc
đầu tư hệ thống tự động phân loại hàng hóa, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực logistics điện tử cũng phải trang bị thêm các phần mềm hệ thống quản lý đơn
hàng (OMS), quản lý kho (WMS), quản lý vận tải (TMS), quản lý tổng thể (ERP)...
để kết nối các hạ tầng thông tin với nhau, nhằm cung cấp thông tin theo thời
gian thực, như trong tra cứu thông tin về đơn hàng mọi lúc, mọi nơi. Chi phí
đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ như vậy cũng lên đến hàng chục, thậm
chí hàng trăm tỉ đồng, là gánh nặng quá lớn với các doanh nghiệp logisctics vừa
và nhỏ.
Một trong những
rào cản lớn nữa để các các doanh nghiệp logistics Việt Nam khi tham gia vào
lĩnh vực e-logistics là đầu tư hệ thống kho bãi để quản trị lưu kho và dự trữ
hàng hóa. Trừ các doanh nghiệp nước ngoài và một số doanh nghiệp trong nước có
quy mô lớn có hệ thống kho bãi riêng, phần lớn các doanh nghiệp logistics hiện
nay nếu có kinh doanh mảng kho bãi đều không đủ năng lực tài chính để đầu tư hệ
thống kho bãi của riêng mình mà phải đi thuê bên ngoài và tất nhiên chi phí
logistics trong chuỗi e-logistics sẽ không thể nào cạnh tranh được.
Logistics điện
tử đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống chi nhánh, đại lý, kho hàng phân bố
rộng khắp trong nội thị cũng như các địa bàn cả nước để bảo đảm phủ sóng tất cả
các đơn hàng với thời gian nhanh nhất. Tuy nhiên, đây là một thách thức rất lớn
đối với các doanh nghiệp logistics nhỏ. Trên thị trường Việt Nam hiện nay chỉ
có các tập đoàn lớn của nước ngoài như DHL, Feedex... hoặc các doanh nghiệp
chuyển phát lớn của Việt Nam như Viettel Post, Vietnam Post... mới có thể đáp
ứng được nhu cầu này.
Mặt khác, lĩnh
vực logistics điện tử đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao để tham gia vào
chuỗi cung ứng vì các quy trình xử lý trong chuỗi logistics điện tử đều liên
quan đến các kiến thức công nghệ mới, khác nhiều so với kiến thức logistics
truyền thống nhưng thực tế hiện nay các doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn còn
thiếu nguồn nhân lực trầm trọng, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường cho
dù có đủ tiềm lực về tài chính.
Cần thay đổi nhanh chóng để không mất thị phần
Trước sự tăng
trưởng nhanh chóng và sôi động của thương mại điện tử (e-commerce), chính phủ
và các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần có chương trình hành động nhanh
chóng để không để mất thị phần ngay trên trên sân nhà.
Khó khăn lớn
nhất của các doanh nghiệp logistics Việt nam khi tham gia lĩnh vực e-logistics là
đầu tư hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng nhu cầu của thương mại điện tử.
Vì vậy, Chính phủ nên chi ngân sách để huy động các tập đoàn công nghệ thông
tin hàng đầu Việt Nam xây dựng, chuyển giao các phần mềm quản trị e-logistics
cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam trên cơ sở miễn phí hoặc giá ưu đãi để
các doanh nghiệp đều có cơ hội sử dụng và tham gia vào chuỗi cung ứng
e-logistics.
Bên cạnh đó,
Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế, thuê đất, lãi vay để hỗ trợ các
doanh nghiệp logistics Việt nam có quy mô lớn có điều kiện đầu tư hệ thống kho
bãi, hệ thống phân loại hàng hóa, đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn lớn của
nước ngoài.
Các doanh nghiệp
chuyển phát lớn trong nước, có uy tín trong lĩnh vực chuyển phát trong nhiều
năm qua như Vietnam Post, Viettel Post cần nhanh chóng đổi mới công nghệ, đào
tạo lại nguồn nhân lực để đủ sức cạnh tranh. Với lợi thế có hệ thống đại lý,
bưu khắp cả nước, phủ sóng cả khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, hệ
thống kho bãi được đầu tư cho hoạt động chuyển phát trên khắp cả nước thì đây
là lợi thế cạnh tranh không hề nhỏ mà các đối thủ khác không thể có. Nếu được
đầu tư công nghệ, thay đổi cách quản trị thì các doanh nghiệp hàng đầu này đủ
sức cạnh tranh công bằng với các đối thủ nước ngoài, không nói là có ưu thế
hơn.
Đối với các
doanh nghiệp logistics nhỏ và siêu nhỏ chưa có điều kiện đầu tư công nghệ hoặc
đầu tư hệ thống kho bãi cũng có thể tham gia vào các thị trường ngách, quy mô
nhỏ, chủng loại hàng đơn chiếc để phục vụ các doanh nghiệp bán lẻ, các cá nhân
kinh doanh thương mại điện tử trên mạng xã hội hoặc các nền tảng ứng dụng di
động. Hoạt động trong những thị trường ngách như vậy sẽ vừa tầm với quy mô
doanh nghiệp hơn vì các yêu cầu chất lượng dịch vụ logistics đối với những
khách hàng này cũng không quá cao.
Nhu cầu nhân lực
là yếu tố vô cùng quan trọng để vận hành hệ thống logistics điện tử. Vì đây là
lĩnh vực mới trong hoạt động logistics, đòi hỏi kỹ năng cao hơn so với
logistics truyền thống nên cần đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực logistics.
Công việc này đòi hỏi sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành, các hiệp
hội và các trường đại học để cung cấp nền tảng kiến thức bổ sung cho nhân lực
ngành e-logistics, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của ngành./.
N: thesaigontimes.vn