Tác động của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) đến hoạt động xuất nhập khẩu, định hướng cho doanh nghiệp Việt Nam
Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII Về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” xác định kim chỉ nam cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế là “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia
- dân tộc”. Chủ trương đó đã giúp nước ta tự tin bước vào giai đoạn
mới của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giai đoạn chủ động xây
dựng các quy tắc mới trong thương mại quốc tế thông qua các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới.
Kết quả đầu tiên của tiến trình thực hiện các
chủ trương mới của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế chính là Hiệp
định Đối tác chiến lược toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
được Quốc hội Việt Nam chính thức thông qua và có hiệu lực từ tháng
1-2019. Tiếp đến, thêm một thông tin tích cực về việc thực hiện các
chủ trương của Nghị quyết số 06-NQ/TW, đó là việc ký kết Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU (EVFTA) ngày 30-6-2019. Sau lễ ký kết,
ngày 12 tháng 02 năm 2020, Nghị viện châu Âu (EP) đã tiến hành bỏ phiếu phê
chuẩn EVFTA với tỷ lệ 63,35% số phiếu tán thành; Ngày 30 tháng 3 năm 2020, Hội
đồng Châu Âu cũng đã phê duyệt Hiệp định EVFTA và đã gửi công hàm thông báo với
Việt Nam vào ngày 24 tháng 4 năm 2020 về việc EU đã hoàn tất thủ tục pháp lý
cuối cùng theo quy trình phê chuẩn nội bộ của mình; Ngày 08 tháng 6 năm 2020
Quốc hội Việt Nam đã bỏ phiếu phê chuẩn Hiệp định EVFTA với tỷ lệ 100% số đại
biểu có mặt và Hiệp định sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 8 năm 2020.
Như vậy, sau Hiệp định CPTPP, việc Việt Nam tham gia ký
kết Hiệp định EVFTA góp phần thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, trên
cơ sở đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất
thế giới. Điều đặc biệt là Việt Nam là nước thứ hai trong ASEAN và
là nước đang phát triển đầu tiên trong khu vực ký kết FTA với EU. Đây
là kết quả của chặng đường dài, thể hiện các bước tiến lớn để đưa
nước ta từ một nước đi sau, lần đầu tiên vươn lên thuộc nhóm nước đi
đầu trong khu vực trong tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế.Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang tích cực
tham gia đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối
tác lớn và khi được ký kết, đưa vào thực thi, các FTA sẽ tạo cơ hội mở rộng thị
trường, đẩy mạnh xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam.
Việc mở rộng thị trường xuất khẩu được coi như là một
chiến lược dài hạn nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá
trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời,
giúp doanh nghiệp Việt Nam cọ xát hơn nữa với thế giới bên ngoài, có điều kiện
để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình
trên trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi mà những lợi thế cạnh
tranh như giá nhân công rẻ, lợi thế tài nguyên hiện đã dần bị thu hẹp, không có
tính bền vững trong khi những yếu tố như thương hiệu, chất lượng sản phẩm cần
một chiến lược phát triển và thời gian.
Hiệp định EVFTA với 17 Chương, 8 Phụ lục, 2 Nghị định
thư, 2 Biên bản ghi nhớ và 4 Tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề bao gồm:
thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy
tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp kiểm dịch và
vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT),
thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu
tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nước, mua sắm của Chính
phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng
năng lực, pháp lý - thể chế.
Với quy mô như vậy, EVFTA là một FTA thế hệ mới, mang lại
nhiều tác động tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam, qua đó đều có
tác động đến tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên minh
châu Âu (EU) như: mở cửa thị trường EU cho hàng hóa Việt Nam; thu hút đầu tư,
phát triển sản xuất trong nước; phát triển công nghiệp hỗ trợ; chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, xuất khẩu; tạo thêm việc làm, nâng cao năng suất lao động,…
Cơ hội đối với xuất
khẩu của Việt Nam khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực
Thứ nhất, EVFTA có tác động tích cực đối với việc nâng cao năng
lực cạnh tranh và công tác phát triển thị trường xuất khẩu
Trong lĩnh vực thương mại, EU-27 hiện là một trong các
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trao đổi
thương mại hai chiều năm 2019 đạt 49,8 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 35,8
tỷ USD.
Đối với EU-27, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 17
trên thế giới, thứ 8 trong các đối tác ở châu Á và lớn thứ hai trong ASEAN.
Năm 2019, EU-27 là thị trường có kim ngạch nhập khẩu đứng
thứ 2 thế giới với trị giá nhập khẩu từ ngoài khối đạt 1.934 tỷ Euro. Xét tương
quan xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này, hàng hóa Việt Nam mới chỉ
chiếm thị phần khoảng 1,8%. Như vậy, dư địa để hàng hóa Việt Nam tăng thêm thị
phần còn khá lớn khi tính cạnh tranh tăng cao nhờ thuế nhập khẩu ưu đãi được
cắt giảm theo EVFTA.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU kỳ
vọng hưởng lợi bao gồm: hàng dệt may, giày dép các loại, các sản phẩm nông -
lâm - thủy sản, các sản phẩm nhựa và nhiều mặt hàng khác.
Hiện hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng
thuế theo Quy định về chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP (thấp hơn thuế MFN là
3,5%; đối với thuế tuyệt đối là 30%), tuy vậy mức thuế này còn rất cao. Việc
hiệp định EVFTA được ký kết sẽ giúp hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh
tranh lớn so với hàng hóa cùng chủng loại từ các nước đối thủ cạnh tranh như
Trung Quốc và một số nước ASEAN do chênh lệch thuế nhập khẩu từ 10-15% và có
thể cạnh tranh bình đẳng về giá với những nước hiện EU không áp dụng thuế quan
và hạn ngạch như Campuchia, Myanmar, Bangladesh ...
Cho đến nay, cam kết của EU trong EVFTA là mức cam kết
cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết.
Theo cam kết, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối
với 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
EU. Tiếp đó sau 07 năm, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế,
tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của ta. Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu
còn lại của Việt Nam, EU dành cho ta hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu
trong hạn ngạch là 0%.
Thứ hai, EVFTA tạo điều kiện cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập
khẩu
Hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu
với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50% kim ngạch xuất
khẩu). EVFTA sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập, khai thác các thị
trường mới, thị trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, EVFTA tạo cơ hội tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu
EVFTA là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát
triển của nền kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp,
tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước
sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử, công nghệ cao, sản phẩm nông
nghiệp xanh...
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài để tận dụng EVFTA hứa hẹn
mang lại cơ hội hợp tác về vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý
hiện đại, hiệu quả hơn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư, EVFTA tạo động lực phát triển công nghiệp phụ trợ
Quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với hàng dệt may là quy
tắc tương đối chặt “từ vải trở đi”, tức vải nguyên liệu được dùng để may quần
áo phải được dệt tại Việt Nam hoặc các nước thành viên EU. Đồng thời, sản phẩm
dệt may cần đáp ứng tiêu chí công đoạn gia công chế biến cụ thể quy định tại
Hiệp định. Tuy nhiên, EVFTA cho phép sử dụng linh hoạt 10% (theo trọng lượng)
sợi hoặc xơ và 8% (theo giá trị) nguyên liệu dệt may khác không có xuất xứ được
sử dụng trong quá tình sản xuất. Đây là thách thức không nhỏ của ngành do hiện
nay ngành vẫn phải chủ yếu dựa vào nhập khẩu vải và nguyên phụ liệu do chưa chủ
động nguồn cung trong nước, trong khi các đơn hàng chủ yếu làm gia công và việc
sử dụng vải và nguyên liệu theo chỉ định của khách hàng nước ngoài.
Quy tắc xuất xứ là thách thức cho xuất khẩu nhưng cũng
bao hàm cơ hội khi tạo áp lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa,
giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu.
Thách thức từ EVFTA
đối với xuất nhập khẩu
Bên cạnh những cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối
mặt với những khó khăn thách thức khi EVFTA có hiệu lực, cụ thể:
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vượt qua các yêu cầu
bắt buộc về rào cản kỹ thuật như an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường,.. của
EU. Các quy định này rất chặt chẽ, yêu cầu cao, do vậy, hàng hóa của Việt Nam
phải hoàn thiện nhiều về chất lượng để có thể vượt qua các rào cản này.
- Sức ép cạnh tranh từ hàng nhập khẩu của EU cũng là
thách thức. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh
sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, nhất là các doanh nghiệp có
công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động
lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm
nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng.
- Hàng hóa Việt Nam cần đáp ứng tiêu chí xuất xứ mới có
thể được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi theo FTA vào EU theo EVFTA. Tuy nhiên,
cũng như sức ép cạnh tranh, đây vừa là thách thức cũng vừa là động lực để thúc
đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giá trị gia tăng trong sản phẩm
xuất khẩu.
- Thương hiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường EU còn kém
cạnh tranh so với các nước xuất khẩu khác; trong khi thị trường EU rất chú
trọng vấn đề thương hiệu.
Định hướng cho cộng
đồng doanh nghiệp
Để tận dụng có hiệu quả các ưu đãi của EVFTA mang lại,
các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu nội dung của EVFTA đặc biệt là các cam
kết liên quan tới thuế quan và quy tắc xuất xứ, chủ động điều chỉnh quy trình
sản xuất, nguồn nguyên liệu để đáp ứng được quy tắc xuất xứ của Hiệp định,
chuyển hướng nguồn nhập khẩu sang các nguồn nguyên liệu trong nước hoặc từ các
nước thành viên EVFTA.
Ngoài ra, để vượt qua được các rào cản về kỹ thuật, thâm
nhập vào thị trường các nước EU, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm,
chuyên nghiệp hóa quy trình bán hàng, tích cực xây dựng và quảng bá thương
hiệu…để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm và doanh nghiệp của mình. Một
trong những việc các doanh nghiệp Việt Nam cần làm ngay là đầu tư nâng cao giá
trị, chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm củng cố tính cạnh tranh của sản phẩm tại
thị trường EU. Các doanh nghiệp cần chú trọng vấn đề vệ sinh thực phẩm, đáp ứng
các tiêu chuẩn và quy trình quản lý do EU quy định, coi trọng trách nhiệm xã
hội, minh bạch hóa thông tin về lao động, môi trường sản xuất, đặc biệt đảm bảo
quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu vào EU.
Cộng đồng doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy kinh
doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và
phát triển. EVFTA chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động
đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại.
Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân và
doanh nghiệp trên cả nước về Hiệp định EVFTA một cách thuận lợi và hiệu quả, Bộ
Công Thương đã xây dựng và đưa vào vận hành chuyên trang thông tin điện tử về
Hiệp định EVFTA tại địa chỉ: http://evfta.moit.gov.vn/. Đây là Cổng thông tin
chính thức của Bộ Công Thương, đăng tải các thông tin tổng quan về EVFTA, cam
kết chính của EVFTA trong các lĩnh vực chủ chốt như hàng hóa, dịch vụ - đầu
tư,…, các thông tin hữu ích cho nhà xuất khẩu, toàn bộ văn kiện Hiệp định EVFTA
(tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt).
Đồng thời nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận được các thông
tin theo ngành, lĩnh vực một cách nhanh nhất, ngày 30 tháng 6 năm 2020 vừa qua
tại Thành phố Hồ Chí Minh Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân TP HCM tổ chức thành công Hội
nghị “Hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nông, lâm, thủy sản vào thị trường EU, thực
thi hiệu quả Hiệp định EVFTA”.
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đồng hành
với doanh nghiệp, đẩy mạnh triển khai những hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận
dụng EVFTA và tiếp tục chú trọng công tác thông tin thị trường theo ngành, lĩnh
vực nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua các rào cản, góp phần quảng bá hình
ảnh, quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu ngành hàng, sản phẩm xuất
khẩu.
Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương